Để tín chỉ carbon được xác nhận, cần áp dụng quy trình cụ thể và được xác nhận dựa trên các tiêu chuẩn quốc tế, đảm bảo giảm phát thải trên toàn chuỗi sản xuất.

leftcenterrightdel
leftcenterrightdel
 

 

TS Trần Minh Hải chia sẻ về cơ chế sản xuất giảm phát thải trong Đề án 1 triệu ha lúa. Ảnh: Nguyễn Thủy.

Không nên ‘bằng mọi giá’ tham gia vào thị trường carbon trong lĩnh vực lúa gạo 

Theo TS Trần Minh Hải, Phó Hiệu trưởng Trường Chính sách công và PTNT, hiện trạng cho thấy nhiều doanh nghiệp tham gia vào đề án nhưng chưa thực hiện đúng thực chất. Một số doanh nghiệp sử dụng sai thiết bị hoặc thậm chí “nói quá” về khả năng giảm phát thải của sản phẩm phân hữu cơ hoặc phân vi sinh mà họ cung cấp. Ông Hải cho rằng, đây là những quan điểm không chính xác. Để tín chỉ carbon được xác nhận, cần phải áp dụng một quy trình cụ thể, bao gồm đầy đủ các bước trong toàn bộ chuỗi sản xuất.

Hơn nữa, ông Hải chỉ ra rằng việc tham gia Đề án 1 triệu ha chỉ với mục đích bán tín chỉ carbon là một cách hiểu sai lầm. Ông đưa ra ví dụ cụ thể: Để sản xuất 8 tấn lúa sẽ phát thải tương ứng 8 tấn carbon. Hiện nay, Bộ NN-PTNT đang hợp tác với Quỹ Tài chính carbon chuyển đổi (TCAF) để định giá tín chỉ carbon với mức giá 20 USD/tín chỉ. Nếu nông dân tuân thủ đầy đủ các quy trình, họ có thể giảm được 30% lượng phát thải, tương đương với việc giảm 2 tín chỉ carbon, mang lại lợi ích kinh tế là 960.000 đồng.

“Lợi ích kinh tế lớn nhất của đề án không chỉ nằm ở việc bán tín chỉ carbon mà còn ở việc giảm các chi phí đầu vào thông qua các quy trình sản xuất hiệu quả hơn. Ngoài ra, việc xây dựng thương hiệu lúa giảm phát thải và tổ chức lại sản xuất trên quy mô lớn cũng mang lại giá trị thặng dư đáng kể”, TS Hải nhấn mạnh. “Điều quan trọng cần lưu ý là không nên tham gia vào thị trường carbon trong lĩnh vực lúa gạo bằng mọi giá. Thay vào đó, cần tập trung thực hiện đúng đắn và bền vững các quy trình sản xuất, đảm bảo lợi ích lâu dài cho cả người nông dân và nền kinh tế nông nghiệp”.

Quy trình MRV là chìa khóa để tham gia thị trường carbon lúa gạo

Bàn về cơ chế sản xuất giảm phát thải trong chuỗi giá trị lúa gạo, TS Trần Minh Hải nhấn mạnh: “Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp vùng ĐBSCL không chỉ gắn liền với tăng trưởng xanh mà còn đáp ứng nhu cầu tái cơ cấu hệ thống sản xuất theo chuỗi giá trị, áp dụng các quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt nhằm gia tăng giá trị sản phẩm lúa gạo”. 

Cập nhật tiến độ tính đến tháng 7/2024, đã có 7 mô hình thí điểm được triển khai, mỗi mô hình có diện tích trung bình 50ha tại các tỉnh Kiên Giang, Cần Thơ, Sóc Trăng, Trà Vinh và Đồng Tháp.

leftcenterrightdel
 

Để tín chỉ carbon được xác nhận, nhà sản xuất lúa gạo cần đảm bảo giảm phát thải trên toàn chuỗi sản xuất. Ảnh: Tùng Đinh.

Theo TS Hải, Cục Trồng trọt phối hợp với Viện Môi trường nông nghiệp đang xây dựng kế hoạch thiết lập và hoàn thiện hệ thống đo đạc, báo cáo và thẩm định (MRV). Đến ngày 4/7/2024, Cục đã trình Bộ NN-PTNT phê duyệt Kế hoạch thực hiện MRV trên các mô hình thí điểm thuộc Đề án. 

Hệ thống MRV bao gồm ba phần chính: giảm đầu vào lượng phân đạm và thuốc bảo vệ thực vật; áp dụng phương pháp tưới ngập khô xen kẽ (AWD), quản lý và xử lý rơm rạ sau thu hoạch.

Hiện tại, Viện Môi trường Nông nghiệp đang phối hợp với các tổ chức quốc tế như Ngân hàng Thế giới (WB), Gold Standard (GS), và Viện Nghiên cứu Lúa gạo Quốc tế (IRRI) để xây dựng thang đo MRV.

Trong đó, GS là tiêu chuẩn quốc tế dành cho các dự án giảm phát thải khí nhà kính, được phát triển bởi Liên minh Quốc tế Bảo tồn Thiên nhiên (WWF) và Tập đoàn South Pole. Verified Carbon Standard (VCS), một tiêu chuẩn quốc tế khác, cũng được sử dụng rộng rãi cho các dự án nhằm giảm thiểu phát thải khí nhà kính, do tổ chức Verra phát triển. 

TS Hải lưu ý: “Đối với tín chỉ carbon trong trồng lúa, Việt Nam cần một khung pháp lý rõ ràng và phù hợp. Hiện nay, trên thế giới chưa có quốc gia nào thương mại hóa tín chỉ carbon cho sản xuất lúa gạo, mà chỉ có các dự án thí điểm”. 

Một trong những thách thức lớn là chi phí để xác định giá thành của một tín chỉ carbon vẫn chưa được thống nhất. Ngoài ra, Việt Nam chưa có tiêu chuẩn rõ ràng cho các thiết bị và công nghệ kiểm tra, đo lường giảm phát thải trong trồng lúa. 

Mặc dù có những thiết bị mới với giá cả phải chăng và tiện dụng, nhưng quy trình đăng ký lại phức tạp, khiến tín chỉ carbon khó được thương mại hóa và người dân khó tiếp cận thị trường. “Đây là rào cản mà chúng ta cần sớm khắc phục để thúc đẩy quá trình giảm phát thải trong sản xuất nông nghiệp”, TS Hải khẳng định.

Do đó, rất cần thiết để sớm có quy định về cơ chế chia sẻ lợi nhuận khi thương mại hóa được tín chỉ carbon từ lúa gạo. Khung pháp lý cũng cần đưa ra tỷ lệ ưu tiên cho những người tham gia vào quá trình giảm phát thải trong sản xuất lúa, nhằm khuyến khích và đảm bảo sự tham gia bền vững của cộng đồng và doanh nghiệp vào công cuộc này.

leftcenterrightdel
 

Quy trình canh tác lúa chất lượng cao, phát thải thấp đã được ban hành trong sổ tay hướng dẫn của Cục Trồng trọt (Bộ NN-PTNT). Ảnh: TS. Trần Minh Hải.

Cần nguồn nhân lực chất lượng, hiểu đúng mục tiêu Đề án 1 triệu ha lúa

Giá của một tín chỉ carbon trồng lúa không chỉ đơn giản là một con số, mà còn bao hàm nhiều lợi ích kép khi áp dụng quy trình sản xuất giảm phát thải, bao gồm lợi ích về bền vững, sức khỏe cộng đồng, bảo vệ môi trường, phát triển phụ phẩm “xanh”, và tăng cường thương hiệu quốc gia.

Để đạt được những mục tiêu trên, ông Hải nhấn mạnh, việc nâng cao trình độ chuyên môn và kỹ năng cho đội ngũ nhân lực là rất cần thiết. Ông nói: “Nếu không thu được tín chỉ giảm phát thải thì chúng ta ‘lỗ’ chứ không ‘lời’. Cần nhân lực để họ có thể thực hiện và quản lý các quy trình sản xuất mới, hiểu rõ và ứng dụng hiệu quả các biện pháp kỹ thuật nhằm tối ưu hóa khả năng hấp thụ và giảm phát thải carbon trong nông nghiệp”.

Do đó, kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực chia thành hai lộ trình chính. Đào tạo cán bộ quản lý nhà nước sẽ tập trung vào kiến thức về sản xuất giảm phát thải, thị trường tín chỉ carbon và các quy định liên quan đến quản lý nhà nước trong lĩnh vực này. Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ thực địa được trang bị các kỹ năng cần thiết để ghi chép nhật ký sản xuất, thiết lập và quản lý hồ sơ sản xuất giảm phát thải, đảm bảo các quy trình được thực hiện một cách minh bạch và hiệu quả.

 

Nguồn: nongnghiep.vn