TÓM TẮT

Doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam đã có những đóng góp đáng kể trong việc phát triển kinh tế tư nhân nói riêng và nền kinh tế nói chung, góp phần nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Bên cạnh những kết quả đã đạt được, các doanh nghiệp này cũng gặp một số khó khăn nhất định trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Từ khóa: Doanh nghiệp nhỏ và vừa, thuận lợi và khó khăn

1. MỞ ĐẦU

Trong những năm qua, kinh tế tư nhân có vai trò hết sức quan trọng góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển và giải quyết các vấn đề xã hội. Đặc biệt, đối với các nền kinh tế đang phát triển, doanh nghiệp nhỏ và vừa là bộ phận quan trọng của thành phần kinh tế tư nhân và đóng góp vai trò quan trọng trong tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động, giúp huy động các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển, xóa đói, giảm nghèo,... Các doanh nghiệp này còn được cho là động lực thúc đẩy cạnh tranh và môi trường kinh doanh bởi đây là khu vực nhạy bén, năng động và sẵn sàng đổi mới so với các doanh nghiệp lớn hơn và đã phát triển ổn định. Các doanh nghiệp này có thể chuyển đổi cơ cấu của một nền kinh tế thông qua đổi mới, cung cấp các đầu vào trung gian và dịch vụ, cho phép chuyên môn hóa mạnh hơn trong sản xuất. Trong chuỗi giá trị toàn cầu, doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể tận dụng thị trường ngách mà doanh nghiệp lớn bỏ qua, họ cũng có thể bắt tay với các doanh nghiệp nhỏ khác trong chuỗi để tái chuyên môn hóa, triển khai sản xuất năng suất hơn và tiêu thụ hiệu quả hơn.

Ở Việt Nam, nhờ chủ trương đúng đắn của Đảng, chính sách thông thoáng của Nhà nước, nên số lượng các doanh nghiệp nhỏ và vừa đã hình thành và phát triển rất nhanh. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam còn gặp những khó khăn nhất định. Bài viết đề cập tới một số thuận lợi và khó khăn trong phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam hiện nay.

2. NỘI DUNG

* Khái niệm doanh nghiệp nhỏ và vừa:

Doanh nghiệp nhỏ và vừa là những doanh nghiệp có quy mô nhỏ bé cả về vốn, lao động và doanh thu. Doanh nghiệp nhỏ và vừa bao gồm doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp vừa, có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 200 người và đáp ứng một trong hai tiêu chí sau đây: Một là, tổng nguồn vốn không quá 100 tỷ đồng; hai là, tổng doanh thu của năm trước liền kề không quá 300 tỷ đồng [5].

Các tiêu chí xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa được cụ thể hóa trong Nghị quyết số 39/2018/NĐ-CP của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 11 tháng 03 năm 2018. Theo đó, doanh nghiệp siêu nhỏ trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản và lĩnh vực công nghiệp, xây dựng có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 10 người và tổng doanh thu của năm không quá 3 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá 3 tỷ đồng. Doanh nghiệp siêu nhỏ trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 10 người và tổng doanh thu của năm không quá 10 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá 3 tỷ đồng.

Doanh nghiệp nhỏ trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản và lĩnh vực công nghiệp, xây dựng có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 100 người và tổng doanh thu của năm không quá 50 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá 20 tỷ đồng. Doanh nghiệp nhỏ trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 50 người và tổng doanh thu của năm không quá 100 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá 50 tỷ đồng.

Doanh nghiệp vừa trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản và lĩnh vực công nghiệp, xây dựng có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 200 người và tổng doanh thu của năm không quá 200 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá 100 tỷ đồng. Doanh nghiệp vừa trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 100 người và tổng doanh thu của năm không quá 300 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá 100 tỷ đồng [2].

* Một số thuận lợi trong phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam hiện nay:

Trong thời kỳ đổi mới, tư duy của Đảng ta về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, về phát triển kinh tế tư nhân, doanh nghiệp nhỏ và vừa đã có bước phát triển và từng bước bổ sung hoàn thiện hơn qua các nhiệm kỳ Đại hội Đảng. Đặc biệt, Đảng ta ngày càng làm rõ hơn vai trò của thành phần kinh tế tư nhân trong nền kinh tế quốc dân: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế, các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật” [4; tr 102-103]. Có thể nói đây là nhận thức mới của Đảng ta về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của kinh tế tư nhân nói chung, doanh nghiệp nhỏ và vừa nói riêng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nhằm phát triển kinh tế - xã hội và tích cực chủ động hội nhập quốc tế: “Hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo thuận lợi phát triển mạnh kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh tế, trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế. Hoàn thiện chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp” [4; tr 107-108].

Trong những năm qua, Chính phủ đã không ngừng triển khai thực hiện các giải pháp cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, hoàn thiện khung pháp lý với những tư tưởng đổi mới mạnh mẽ, tạo động lực cho doanh nghiệp phát triển. Điển hình, trong năm 2014, Chính phủ trình và Quốc hội đã thông qua Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp (sửa đổi) nhằm tạo sự thay đổi tích cực môi trường đầu tư kinh doanh. Luật Doanh nghiệp 2014 và Luật Đầu tư 2014 chính thức có hiệu lực từ tháng 07 năm 2015, đã tạo cơ chế thông thoáng, tác động trực tiếp, thuận lợi cho doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh, khi doanh nghiệp có quyền tự quyết về số lượng, hình thức, nội dung của con dấu; được tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm; thời gian đăng ký thành lập doanh nghiệp đã được rút ngắn còn 03 ngày. Cùng với đó, Luật Đất đai, Luật Thương mại, Luật Phá sản, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp và hàng loạt các văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành, tác động tích cực tới sự phát triển của các doanh nghiệp.

Ngoài ra, để tạo điều kiện phát triển doanh nghiệp, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 16/5/2016 về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020. Theo Nghị quyết, đến năm 2020, cả nước có ít nhất 1 triệu doanh nghiệp hoạt động, trong đó có các doanh nghiệp có quy mô lớn, nguồn lực mạnh. Khu vực tư nhân Việt Nam đóng góp khoảng 48 - 49% GDP, khoảng 49% tổng vốn đầu tư toàn xã hội [1]. Nghị quyết cũng nêu rõ 10 nguyên tắc để xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển và trở thành động lực của nền kinh tế. Để tiếp tục nâng cao hiệu lực pháp lý, nhằm tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, bình đẳng, minh bạch cho mọi thành phần kinh tế, chú trọng công tác trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, tại kỳ họp thứ 3 khóa XIV, Quốc hội đã thông qua Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa (Luật số 04/2017/QH14). Luật có hiệu lực thi hành từ 01/01/2018, với nhiều chính sách hỗ trợ cơ bản dành cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa:

Một là, hỗ trợ tiếp cận tín dụng;

Hai là, hỗ trợ thuế, kế toán;

Ba là, hỗ trợ mặt bằng sản xuất;

Bốn là, hỗ trợ công nghệ; hỗ trợ cơ sở ươm tạo, cơ sở kỹ thuật, khu làm việc chung;

Năm là, hỗ trợ mở rộng thị trường;

Sáu là, hỗ trợ thông tin, tư vấn và pháp lý;

Bảy là, hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực;

Tám là, hỗ trợ tham gia cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị [5].

Đặc biệt, để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong việc tiếp cận tín dụng, phát triển sản xuất, kinh doanh, Nghị định số 39/2019/NĐ-CP của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa chính thức được ban hành ngày 10 tháng 05 năm 2019 và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 07 năm 2019.

Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa là quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, do Thủ tướng Chính phủ thành lập. Quỹ hoạt động theo mô hình Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ, vốn điều lệ tối thiểu là 2.000 tỷ đồng. Hoạt động cho vay của Quỹ được thực hiện dưới hai hình thức là cho vay trực tiếp và cho vay gián tiếp. Cho vay trực tiếp là việc Quỹ trực tiếp thực hiện cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa. Cho vay gián tiếp là việc Quỹ thực hiện cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa thông qua giao vốn cho ngân hàng thương mại được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật.

Để được vay vốn, doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo, doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị phải có dự án, phương án sản xuất, kinh doanh khả thi; đảm bảo nguồn vốn chủ sở hữu tối thiểu 20% tổng vốn đầu tư của dự án; đáp ứng các quy định về bảo đảm tiền vay theo quy định pháp luật. Lãi suất cho vay trực tiếp của Quỹ bằng 80% mức thấp nhất lãi suất cho vay thương mại, mức thấp nhất của lãi suất cho vay thương mại được xác định trên cơ sở so sánh lãi suất cho vay của 04 ngân hàng thương mại có vốn nhà nước và có tổng tài sản lớn nhất tại thời điểm xác định lãi suất cho vay của Quỹ [3].

Mức cho vay đối với mỗi dự án, phương án sản xuất, kinh doanh tối đa không quá 80% tổng mức vốn đầu tư của từng dự án, phương án. Tổng mức cho vay của Quỹ đối với một doanh nghiệp nhỏ và vừa không được vượt quá 15% vốn điều lệ thực có của Quỹ, thời hạn cho vay tối đa không quá 07 năm [3].

Ngoài chức năng cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa, Quỹ còn tiếp nhận, quản lý và sử dụng vốn vay, tài trợ, viện trợ, đóng góp, ủy thác của các tổ chức, cá nhân để hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Quỹ tài trợ vốn cho doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo, doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị thông qua phương thức cấp vốn không hoàn lại từ nguồn vốn vay, tài trợ, viện trợ, đóng góp, ủy thác của các tổ chức, cá nhân hoặc vốn bổ sung từ kết quả hoạt động của Quỹ.

Đặc biệt, để hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa sử dụng nguồn vốn có hiệu quả, Quỹ thực hiện các hoạt động hỗ trợ tăng cường năng lực cho doanh nghiệp nhỏ và vừa như tổ chức hội thảo, truyền thông, đào tạo, tư vấn, xúc tiến đầu tư, thương mại, cung cấp thông tin, cơ sở dữ liệu. Căn cứ nguồn vốn hoạt động và kế hoạch hoạt động hàng năm, Quỹ lập dự án, đề án hỗ trợ nghiên cứu phát triển; dự án, đề án đầu tư, thành lập cơ sở ươm tạo, cơ sở kỹ thuật, khu làm việc chung để hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa [3].

Sau hơn 30 năm đổi mới, doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam đã phát triển nhanh chóng (đặc biệt sau khi Luật Doanh nghiệp có hiệu lực), góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, giải quyết công ăn việc làm, thu hút lao động dư thừa, nguồn vốn nhàn rỗi, tận dụng các nguồn lực xã hội, phục vụ cho tăng trưởng kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội. Có thể khẳng định, đóng góp lớn nhất và quan trọng nhất của doanh nghiệp nhỏ và vừa là tạo việc làm và góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động xã hội. Khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ đã thu hút 49% việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn, khoảng 25 - 26% lực lượng lao động cả nước [7].

Trong năm 2018, cả nước có 131,3 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng vốn đăng ký là 1.478,1 nghìn tỷ đồng, tăng 3,5% về số doanh nghiệp và tăng 14,1% về số vốn đăng ký so với năm 2017; vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới đạt 11,3 tỷ đồng, tăng 10,2%. Bên cạnh đó, còn có hơn 34 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 28,6% so với năm trước, nâng tổng số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và doanh nghiệp quay trở lại hoạt động trong năm 2018 lên gần 165,3 nghìn doanh nghiệp [8].

Báo cáo tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam nhiệm kỳ 2016-2021 cho thấy, với số lượng chiếm đa số (trên 97%), các doanh nghiệp nhỏ và vừa là lực lượng quan trọng đóng góp cho tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm và thu nhập cho người lao động; trong đó đóng góp khoảng 40% GDP, 33% giá trị sản xuất công nghiệp, 30% giá trị hàng hóa xuất khẩu và thu hút khoảng 50% lực lượng lao động của cả nước [6].

* Một số khó khăn trong phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam hiện nay:

Bên cạnh những thuận lợi nêu trên, việc phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam hiện nay còn tồn tại một số hạn chế như sau:

Thứ nhất, hiệu quả sản xuất, kinh doanh thấp, sức cạnh tranh kém. Thách thức lớn nhất đối với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta là khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp nhìn chung còn hạn chế. Trong nhiều năm, Việt Nam bị tụt bậc, hoặc không cải thiện nhiều về năng lực cạnh tranh của nền kinh tế so với các nước khác trên thế giới. Mặc dù có nhiều thay đổi, song môi trường đầu tư kinh doanh vào Việt Nam còn nhiều vướng mắc, chậm được cải thiện. Theo Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), hiện nay còn tồn tại nhiều loại giấy phép kinh doanh có hiệu lực quản lý thấp, mục tiêu không rõ ràng, tạo cơ hội cho việc lạm quyền, gia tăng nhiều khoản chi phí không chính thức cho doanh nghiệp. Để thành lập một doanh nghiệp và đi vào hoạt động cần nhiều thủ tục như xin mã số thuế, lắp đặt hệ thống điện nước, điện thoại, phòng cháy chữa cháy, giấy phép xây dựng nhà xưởng, chứng nhận về môi trường,... Do đó, đối với một số doanh nghiệp nhỏ và vừa, chi phí “bôi trơn” cho bộ máy công quyền còn lớn hơn cả mức thuế phải nộp. Các chi phí này cộng thêm những khó khăn trong quá trình sản xuất kinh doanh là nguyên nhân chủ yếu đẩy giá thành sản phẩm lên cao, làm giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Chính vì vậy, Chính phủ đã lấy năm 2017 là năm giảm chi phí cho doanh nghiệp; giấy phép con và phí là hai cứ điểm mà Chính phủ xác định “tấn công” tổng lực trong thời gian tới.

Thứ hai, quy mô nhỏ, thiếu vốn sản xuất, kinh doanh, chủ yếu dựa vào vốn tự có. Do phần lớn doanh nghiệp Việt Nam hiện có quy mô nhỏ nên rất khó tăng năng suất lao động nhờ chuyên môn hóa hay tận dụng lợi thế quy mô được. Theo Báo cáo Thường niên Doanh nghiệp Việt Nam 2015 của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), trong giai đoạn 2007 - 2015, các doanh nghiệp Việt Nam đang dịch chuyển theo hướng quy mô ngày càng nhỏ hơn. Lao động bình quân trong doanh nghiệp đã giảm từ 49 lao động năm 2007 xuống chỉ còn 29 lao động năm 2015 [9]. Mặt khác, vì quy mô nhỏ nên khả năng tích tụ và tập trung vốn để đầu tư, đổi mới công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất hầu như không có. Trong mấy năm gần đây, khi kinh tế toàn cầu vẫn đang trong giai đoạn phục hồi chậm sau suy thoái, lượng cung hàng hóa nhiều hơn cầu, hầu hết giá nguyên liệu đầu vào của các ngành vẫn cao, trong khi giá bán sản phẩm không tăng dẫn đến sức tiêu thụ giảm sút mạnh, hàng tồn đọng nhiều. Nhiều doanh nghiệp phải chủ động thu hẹp sản xuất, hoạt động cầm chừng. Hiệu quả sản xuất, kinh doanh yếu kém của doanh nghiệp nhỏ và vừa dẫn đến khả năng cạnh tranh thấp, thua kém các doanh nghiệp nước ngoài ngay trên “sân nhà”.

Thứ ba, bất cập về trình độ quản lý và chất lượng nguồn lao động. Theo kết quả điều tra gần đây, có tới 75% lực lượng lao động trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa chưa qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật [9]. Về trình độ quản lý, cũng theo kết quả điều tra, đa số các chủ doanh nghiệp, ngay cả những người có trình độ học vấn từ cao đẳng và đại học trở lên cũng ít người được đào tạo về kiến thức kinh tế và quản trị doanh nghiệp, các lớp về pháp luật trong kinh doanh..., điều này ảnh hưởng lớn đến việc hoạch định chiến lược phát triển, định hướng kinh doanh và quản lý, phòng tránh các rủi ro pháp lý cho doanh nghiệp mình. Tình trạng thực hiện chưa đầy đủ các chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho người lao động đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến quyền lợi người lao động và giảm đi chất lượng công việc trong khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Thứ tư, hạn chế về công nghệ. Các số liệu thống kê cho thấy, phần lớn các doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn sử dụng công nghệ lạc hậu so với mức trung bình của thế giới từ 2 đến 3 thế hệ. Thêm vào đó, số doanh nghiệp chú trọng đầu tư cho khoa học - công nghệ hiện đại không nhiều. Việc đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp còn diễn ra chậm chạp. Theo báo cáo của Cục Ứng dụng và Phát triển công nghệ (Bộ Khoa học và Công nghệ), hiện Việt Nam đầu tư cho nghiên cứu và phát triển khoảng 1% GDP, trong đó từ Chính phủ chiếm 70%, từ doanh nghiệp chỉ chiếm 30%. Thực tế này cho thấy, mục tiêu đến năm 2020 đầu tư cho khoa học và công nghệ chiếm 2% GDP quốc gia, trong đó 3/4 là đầu tư từ hệ thống doanh nghiệp rất khó thực hiện [9].

Về nguyên nhân của những khó khăn nêu trên, trước hết, về phía Chính phủ, còn thiếu những biện pháp thiết thực và hiệu quả để hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, như tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, ở đó các doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận tài chính, thị trường trong nước; hỗ trợ công nghệ tiên tiến và đổi mới; bảo đảm an ninh trong hoạt động kinh doanh; luật pháp và khung pháp lý thống nhất, đồng bộ, minh bạch và hiệu lực cao; sự hỗ trợ trong mở rộng thị trường xuất khẩu. Ngoài ra, các doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng khó tiếp cận các dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp cũng như nguồn vốn ưu đãi trong phát triển sản xuất, kinh doanh: Qua khảo sát Chỉ số Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) 2015, có đến 65% doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ khó tiếp cận các dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp. nguồn vốn ưu đãi [9].

Trong thời gian tới, để phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, góp phần đưa kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế, cần tập trung vào một số giải pháp sau:

Một là, tạo lập môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Khuyến khích, tạo điều kiện cho các hộ kinh doanh mở rộng quy mô, nâng cao hiệu quả hoạt động, tự nguyện liên kết hình thành các hình thức tổ chức hợp tác hoặc chuyển đổi sang hoạt động kinh doanh theo mô hình doanh nghiệp thông qua các chính sách như: miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, tiền sử dụng đất trong những năm đầu hoạt động; tư vấn, hướng dẫn thủ tục thành lập doanh nghiệp, xây dựng phương án sản xuất kinh doanh; tổ chức công tác tài chính, kế toán; cung cấp thông tin; hướng dẫn quản trị doanh nghiệp và tư vấn pháp luật.

Ngoài ra, cần hoàn thiện và bảo đảm sự minh bạch, hiệu quả chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, phong trào khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo. Bên cạnh đó, cần hoàn thiện cơ chế, chính sách thu hút đầu tư tư nhân và bảo đảm hoạt động của doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam theo cơ chế thị trường. Thể chế hóa đầy đủ và bảo đảm thực hiện nghiêm minh quyền tự do kinh doanh, quyền sở hữu tài sản, các quyền, nghĩa vụ dân sự của các tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật. Xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích thành lập doanh nghiệp nhỏ và vừa; thu hẹp những lĩnh vực kinh doanh có điều kiện, tạo điều kiện để kinh tế tư nhân đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh trong những ngành, lĩnh vực, địa bàn mà pháp luật không cấm, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ.

Hai là, hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam đổi mới sáng tạo, hiện đại hóa công nghệ và phát triển nguồn nhân lực, nâng cao năng suất lao động. Khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam đầu tư vào các hoạt động nghiên cứu và phát triển, ứng dụng, chuyển giao công nghệ tiên tiến. Hoàn thiện và bảo đảm thực thi hiệu quả pháp luật về sở hữu trí tuệ. Phát triển các quỹ hỗ trợ đổi mới sáng tạo và ứng dụng công nghệ. Áp dụng chính sách thuế, hỗ trợ tài chính, tiếp cận các nguồn vốn ưu đãi phù hợp với hoạt động nghiên cứu, đổi mới, hiện đại hóa công nghệ.

Cần có hình thức hỗ trợ đổi mới công nghệ tại doanh nghiệp nhỏ và vừa, như hỗ trợ các doanh nghiệp công nghệ cao; tạo thuận lợi cho thương mại hóa công nghệ được phát triển; thúc đẩy hợp tác và phổ biến công nghệ thông qua biện pháp hợp tác công nghệ giữa các học viện, viện nghiên cứu, ngành công nghiệp và Chính phủ. Cần có cơ chế hỗ trợ tra cứu thông tin khoa học và công nghệ, sở hữu trí tuệ để các doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể tiếp cận một cách có hiệu quả hơn nguồn thông tin sáng chế phục vụ nhu cầu sản xuất và đổi mới công nghệ.

Triển khai có hiệu quả hoạt động trợ giúp đào tạo nguồn nhân lực hằng năm cho doanh nghiệp nhỏ và vừa; định kỳ tổ chức điều tra, khảo sát để nắm bắt được nhu cầu sử dụng nguồn nhân lực của doanh nghiệp nhỏ và vừa, qua đó có cơ sở đổi mới nội dung, phương thức phù hợp yêu cầu nguồn nhân lực; rà soát và lồng ghép các giải pháp tăng cường đầu tư phát triển dạy nghề nâng cao chất lượng nguồn lao động, đặc biệt là lao động kỹ thuật; hoàn thiện hệ thống thông tin thị trường lao động; phát triển các hình thức thông tin thị trường lao động, nhất là hình thức giao dịch về việc làm chính thức trên thị trường lao động nhằm kết nối cung - cầu lao động; tạo thuận lợi cho doanh nghiệp trong quá trình tuyển dụng lao động phù hợp với yêu cầu sản xuất, kinh doanh. Bên cạnh đó, tăng cường công tác đào tạo nâng cao năng lực quản trị cho doanh nghiệp nhỏ và vừa; bồi dưỡng kiến thức pháp luật, tổ chức các hoạt động dưới nhiều hình thức nhằm tuyên truyền, khuyến cáo doanh nghiệp thực thi pháp luật.

Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Khuyến khích, động viên tinh thần kinh doanh, ý chí khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo trong toàn xã hội, nhất là trong cộng đồng doanh nghiệp. Đẩy mạnh phổ biến, tuyên truyền, giáo dục kiến thức kinh doanh, khởi nghiệp trong toàn xã hội.

Ba là, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước. Nâng cao năng lực xây dựng và tổ chức thực hiện có hiệu quả chính sách, pháp luật, kế hoạch, chiến lược phát triển; tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, an toàn cho doanh nghiệp phát triển lành mạnh, đúng định hướng. Nâng cao năng lực, hiệu quả phối hợp quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực và địa phương đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam, bao gồm cả việc bảo đảm hiệu quả quản lý nhà nước đối với các tổ chức xã hội - nghề nghiệp.

Đẩy mạnh cải cách hành chính mà trọng tâm là tạo bước đột phá trong cải cách thủ tục hành chính. Đơn giản hóa, rút ngắn thời gian xử lý các thủ tục hành chính, nhất là về thành lập doanh nghiệp, đăng ký kinh doanh, cấp phép, thuế, xuất - nhập khẩu, giải quyết tranh chấp.

3. KẾT LUẬN

Thực tiễn hơn 30 năm đổi mới cho thấy, doanh nghiệp nhỏ và vừa là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển kinh tế tư nhân nói riêng và nền kinh tế nói chung. Bên cạnh những thuận lợi trong quá trình phát triển, các doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng gặp những khó khăn nhất định như hiệu quả sản xuất, kinh doanh thấp, sức cạnh tranh kém, công nghệ,... Trong thời gian tới, cần tập trung vào một số giải pháp để phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa, góp phần đưa kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Chính phủ (2016), Nghị định số 35/NĐ-CP ngày 16 tháng 05 năm 2016 của Chính phủ về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020.

[2] Chính phủ (2018), Nghị định số 39/2018/NĐ-CP ngày 11 tháng 03 năm 2018 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa.

[3] Chính phủ (2019), Nghị định số 39/2019/NĐ-CP ngày 10 tháng 05 năm 2019 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của quỹ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa.

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.

[5] Quốc hội (2017), Luật số 04/2017/QH14 ngày 12 tháng 06 năm 2017 của Quốc hội hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa.

[6] http://www.doanhnghiephungyen.org.vn/Tin-chi-tiet/dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-hiep-hoi-dnnvv-viet-nam-lan-thu-iii-thanh-cong-tot-dep?AspxAutoDetectCookieSupport=1, Đại hội đại biểu toàn quốc Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam lần thứ III thành công tốt đẹp, truy cập ngày 18/09/2019.

[7] http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/thuc-tien/item/2850-nang-cao-nang-luc-canh-tranh-cua-doanh-nghiep-nho-va-vua-viet-nam-trong-dieu-kien-hoi-nhap-quoc-te.html, Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế, truy cập ngày 18/09/2019.

[8] Tổng cục Thống kê, Niêm giám thống kê 2018, Tổng quan kinh tế - xã hội Việt Nam năm 2018, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội.

[9] http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/kinh-te/2016/42747/Phat-trien-doanh-nghiep-nho-va-vua-Tao-dong-luc-cho.aspx, Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa - Tạo động lực cho nền kinh tế, truy cập ngày 18/09/2019.

ThS. Nguyễn Thị Sơn - Khoa Khoa học xã hội