Dịch bệnh trên thủy sản đặc biệt là tôm nuôi được ngành chức năng dự báo sẽ bùng phát trong năm 2022 khi thời tiết gặp bất lợi như giao mùa, hạn hán, bão, lũ lụt, xâm nhập mặn... Chính vì thế, chú trọng và chủ động tìm ra các giải pháp ứng phó phòng chống dịch bệnh một cách toàn diện mới tạo cơ hội cho con tôm phát triển.
Khó chồng khó
Theo nhận định từ các bộ, ngành và Hiệp hội, năm 2022, khó khăn đặt ra đối với ngành tôm Việt Nam là tình hình dịch COVID-19 vẫn diễn biến phức tạp, kéo theo hệ lụy thiếu nhân công và nguy cơ đứt gãy chuỗi sản xuất; giá thành sản xuất tôm vẫn còn cao so với các nước trong khu vực, công tác giám sát dịch bệnh trên tôm vẫn còn nhiều hạn chế; các buổi Hội thảo, Hội nghị chuyên đề khó diễn ra theo kế hoạch bởi sự hạn chế về số lượng đại biểu tham dự để đảm bảo công tác phòng, chống dịch.
Tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc triển khai chiến lược phát triển thủy sản đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, ông Trần Đình Luân - Tổng Cục trưởng Tổng cục Thủy sản (Bộ NN&PTNT) cảnh báo trong thời gian tới, nghề nuôi thủy sản trên phạm vi toàn quốc sẽ bị thiệt hại nặng nề hơn. Diện tích tôm nuôi tiếp tục bị thiệt hại có thể tăng mạnh và nguy cơ dịch bệnh trong thời gian tới là rất cao do người nuôi tôm bắt đầu tăng thả nuôi, trong khi đó các điều kiện bất lợi của thời tiết (giao mùa, hạn hán, bão và lũ lụt tại một số tỉnh, xâm nhập mặn...) tiếp tục diễn biến phức tạp. Con tôm luôn bị tác động tiêu cực từ thời tiết cực đoan và thường xuyên phải đối mặt với các hiện tượng mặn vượt ngưỡng gây thiệt hại trên diện rộng; các loại mầm bệnh nguy hiểm còn lưu hành ở nhiều vùng nuôi, có thể xâm nhập và gây bệnh cho tôm như AHPND, WSD, EHP... Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Phùng Đức Tiến cũng cho rằng: “Phần lớn diện tích NTTS của nước ta tập trung ở ĐBSCL, trong khi vùng này được dự báo ảnh hưởng nhiều nhất bởi biến đổi khi hậu nên thách thức về hạn hán, xâm nhập mặn, dịch bệnh trên vật nuôi cũng là rủi ro không thể xem nhẹ nhất là đối với lĩnh vực nuôi trồng thủy sản tại vùng này”.
Người nuôi tôm cần phải chủ động, kiểm tra sức khỏe tôm thường xuyên Ảnh: Shutterstock
Vấn đề lạm dụng kháng sinh trong NTTS đã được đề cập từ lâu nhưng dường như vẫn chưa có giải pháp tháo gỡ. Sở dĩ tình trạng sử dụng kháng sinh ngày càng tràn lan là do dịch bệnh ngày càng diễn biến phức tạp. Dịch bệnh trên tôm khá phổ biến, vì tôm là loài khó nuôi, dễ bị bệnh. Các cơ sở nuôi lại chưa tuân thủ đúng thời gian ngừng sử dụng thuốc trước khi thu hoạch đối với một số hóa chất, kháng sinh được phép sử dụng, dẫn đến tồn dư kháng sinh trên tôm. Việc kiểm soát sử dụng chất cấm, đặc biệt là kháng sinh cấm vẫn gặp nhiều khó khăn do thị trường còn nhỏ lẻ, vùng nuôi phân tán.
Ngoài ra, kế hoạch phòng chống dịch bệnh cho thủy sản nuôi tại các địa phương còn bất cập, nhất là về giám sát, cảnh báo bệnh trên thủy sản nuôi còn bị động. Hoạt động của các tổ cộng đồng nuôi tôm ở nhiều tỉnh còn nhiều hạn chế, ý thức một số hộ nuôi còn kém, chưa có sự đoàn kết trong công tác bảo vệ môi trường, chưa quan tâm đến việc kiểm dịch con giống, chưa chấp hành các khuyến cáo của cơ quan chuyên môn. Khi dịch bệnh xảy ra, nhiều hộ nuôi không báo cáo cho cơ quan chức năng mà tự ý thu hoạch và không xử lý mầm bệnh trước khi xả thải ra môi trường làm lây lan dịch bệnh. Thêm vào đó, hiện nay nhiều vùng nuôi có hệ thống công trình nuôi không đảm bảo yêu cầu về phòng, chống dịch bệnh, hầu hết không có ao lắng, ao xử lý nước, lấy nước trực tiếp từ ngoài vào ao nuôi, hệ thống cấp thoát nước chưa riêng biệt... cũng là một trong những nguyên nhân khiến dịch bệnh trên tôm nuôi diễn biến phức tạp.
Giải pháp nào?
Dịch bệnh trên thủy sản đã giảm mạnh trong các tháng đầu năm 2021, nhưng nguy cơ trong thời gian tới là rất cao. Do đó, yếu tố quan trọng nhất quyết định cho phòng chống dịch bệnh thủy sản là nuôi trồng an toàn sinh học. Theo Thứ trưởng Phùng Đức Tiến, để giải quyết tốt công tác thú y phòng bệnh thì không chỉ có độc lập mỗi lĩnh vực thú y mà phải đi cùng với quan sát môi trường, giám sát dịch bệnh. Bên cạnh đó, để NTTS an toàn cũng cần đảm bảo các yếu tố khác như giống, thức ăn, quy trình nuôi, chế phẩm sinh học…Cần có cách nhìn mới tổng thể hơn trong việc lựa chọn cách thức tiếp cận để xây dựng các giải pháp phát triển ngành tôm thân thiện môi trường và hạn chế dịch bệnh.
Ngành thủy sản và các tỉnh, thành cần áp dụng đồng bộ các biện pháp tổng hợp phòng chống dịch bệnh trên tôm nuôi. Cùng với đó, nghiên cứu, điều chỉnh, bổ sung các quy trình nuôi thủy sản đã phổ biến để phù hợp hơn với các diễn biến của biến đổi khí hậu, thời tiết cực đoan, nước biển dâng.
Áp dụng các phương pháp nghiên cứu từ truyền thống như mô học đến các phương pháp hiện đại (như sử dụng kính hiển vi điện tử, PCR…) để xác định nhanh chóng và chính xác tác nhân gây bệnh. Nghiên cứu phát triển biện pháp phòng trị bệnh đảm bảo an toàn thực phẩm và thân thiện với môi trường như sản xuất vaccine, probiotic, sản phẩm nano, sản phẩm thảo dược, hạn chế sử dụng kháng sinh. Phát triển, ứng dụng các công nghệ nuôi tiên tiến như Biofloc, Copefloc, nuôi trong nhà, công nghệ sử dụng vi sinh ít thay nước, ứng dụng những thành tựu mới trong các lĩnh vực tin học, vật liệu mới và công nghệ sinh học, tự động hóa trong các khâu chăm sóc, cho ăn, giám sát môi trường và bệnh, truy xuất nguồn gốc.
Nghiên cứu sản xuất giống, chọn giống sạch bệnh để tăng cường tỷ trọng tôm giống sạch bệnh phục vụ nuôi thương phẩm. Thắt chặt việc quản lý khâu nhập tôm bố mẹ và vận chuyển giống nhằm hạn chế lây lan bệnh. Tăng cường giám sát vùng nuôi, sớm phát hiện các vùng dịch để hạn chế lây lan. Phát triển các hệ thống sản xuất quy mô lớn để thuận lợi cho việc áp dụng quản lý an toàn sinh học, an toàn thực phẩm, quản lý môi trường và giảm giá thành sản phẩm.
Tăng cường liên kết giữa các khâu trong chuỗi liên kết giữa các hộ sản xuất trong vùng nuôi để phòng ngừa dịch bệnh hiệu quả. Áp dụng nguyên tắc an toàn sinh học trong quản lý hoạt động nuôi từ khâu nuôi vỗ tôm bố mẹ cho đến nuôi thương phẩm ở trong các trại nuôi. Sử dụng chế phẩm sinh học dạng vi sinh định kỳ để cải thiện chất lượng nước và quản lý chất thải trong quá trình nuôi. Hạn chế sử dụng kháng sinh, tuyệt đối không sử dụng kháng sinh trong phòng bệnh tôm. Từng bước ứng dụng công nghệ thông tin để quản lý hoạt động sản xuất.
Ông Trần Đình Luân khuyến cáo các tỉnh, thành hướng dẫn người nuôi thủy sản tích cực triển khai các giải pháp quản lý tốt mùa vụ nuôi; đầu tư ao lắng để lọc nước, trữ nước sử dụng khi cần thiết. Các nông hộ chỉ nên thả giống nuôi thủy sản khi bảo đảm điều kiện ao nuôi, nhất thiết sử dụng giống thủy sản có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng, được kiểm dịch. Cần chủ động giám sát dịch bệnh, xử lý môi trường trước khi thả nuôi, sử dụng nguồn nước đảm bảo, sử dụng con giống, chế phẩm sinh học có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng, chất lượng. Ngoài ra, việc thả nuôi với mật độ hợp lý, tránh thả nuôi dày sẽ góp phần giảm thiểu nguy cơ dịch bệnh phát sinh đối với thủy sản. Đặc biệt là chế phẩm sinh học đang được sử dụng trong NTTS khá nhiều nên Bộ NN&PTNT sẽ chỉ đạo Tổng cục Thủy sản rà soát lại các chế phẩm sinh học, không để người nuôi trồng sử dụng các sản phẩm không hiệu quả mà làm tăng giá thành sản phẩm, các chỉ tiêu không đạt khiến hiệu quả giảm, kéo theo sức cạnh tranh của sản phẩm giảm.
Khi bệnh xảy ra, cần xử lý triệt để và có trách nhiệm, báo ngay cơ quan liên quan vấn đề bệnh để xử lý kịp thời, đúng cách. Đối với những ao nuôi đã thu hoạch xong, nước thải và các chất thải rắn phải được bơm vào khu vực riêng dành để chứa bùn và chất thải; nước thải phải được xử lý trước khi thải ra tự nhiên, hạn chế lây lan mầm bệnh, theo dõi sức khỏe tôm nuôi…Tăng cường giám sát chủ động nhằm phát hiện sớm động vật thủy sản mắc bệnh, báo cáo với chính quyền địa phương hoặc nhân viên thú y xã và áp dụng biện pháp phòng chống kịp thời.
Khoa Thủy sản